Bệnh giác mạc hình chóp là một trong những bệnh loạn dưỡng dãn lồi giác mạc và là một trong những chỉ định hàng đầu của phẫu thuật ghép giác mạc. Bệnh được mô tả chi tiết bởi Dr John Nottingham hơn 150 năm trước, tuy nhiên những hiểu biết về cơ chế cũng như điều trị bệnh đạt được rất ít bước tiến trong hàng chục năm trở lại đây. Các nhà nghiên cứu đã đạt được một số thành tựu mới về công nghệ và kĩ thuật trong điều trị bệnh, trong khi vẫn dành sự tôn trọng cho các phương pháp truyền thống là sử dụng kính áp tròng và ghép giác mạc trong những giai đoạn muộn.
Giác mạc hình chóp gây bởi tình trạng mỏng nhu mô giác mạc, có thể dẫn đến loạn thị không đều và giảm thị lực. Bệnh thường xuất hiện ở tuổi dậy thì và tiến triển đến khi trưởng thành trên 30 tuổi. Trong phần lớn các trường hợp bệnh diễn ra ở cả 2 mắt, trong đó có một mắt sẽ bị nặng hơn. Ở những giai đoạn sớm, thị lực giảm do cận thị và loạn thị không đều. Tuy nhiên khi đến giai đoạn muộn thì thị lực giảm trầm trọng do sẹo giác mạc. Theo thống kê 12-20 % số bệnh nhân giác mạc hình chóp cần được ghép giác mạc để phục hồi thị lực ngay khi tuổi còn trẻ.
Trong vài năm trở lại đây đã có sự thay đổi trong quan điểm điều trị bệnh giác mạc hình chóp. Nếu trước đây các phương pháp điều trị tập trung vào việc phục hồi thị lực ở những giai đoạn muộn thì hiện nay các nhà nghiên cứu cho rằng cần phát hiện sớm và ngăn chặn, không để bệnh tiến triển đến giai đoạn muộn.
Phương pháp Collagen cross-linking (CXL) là phương pháp mới nhất trong điều trị bệnh giác mạc hình chóp tiến triển cùng một số các bệnh lý giác mạc khác như loét giác mạc, tổn thương nội mô sau phẫu thuật và loạn dưỡng giác mạc sau phẫu thuật Lasik. Quy trình điều trị bao gồm gạt biểu mô, nhỏ dung dịch Riboflavin đến khi ngấm toàn bộ nhu mô và chiếu tia cực tím với bước song 370 nm trong 30 phút. Dưới tác dụng của Riboflavin và tia cực tím, các liên kết ngang giữa các sợi collagen cấu tạo nên giác mạc được hình thành. Các liên kết này được hình thành giúp nhu mô giác mạc bền vững hơn trước các tác động cơ học, lý hóa cũng như bền vững hơn trước các enzyme phân hủy, trong khi không thay đổi tính chất trong suốt của giác mạc. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong điều trị các bệnh lý dãn lồi giác mạc như giác mạc hình chóp, loạn dưỡng giác mạc sau phẫu thuật lasik cũng như các bệnh lý khác như loét giác mạc, tổn thương nội mô sau phẫu thuật.
Thử nghiệm ứng dụng CXL trên lâm sàng đầu tiên trong điều trị bệnh giác mạc hình chóp được thực hiện bởi Wollensak và cộng sự. 22 bệnh nhân mắc bệnh giác mạc hình chóp tiến triển được điều trị trong thời gian 3 năm. Trên tất cả các mắt được điều trị, tình trạng tiến triển của bệnh được ngăn chặn. Khúc xạ giác mạc giảm trung bình 2 diop trên 70% số mắt. Kết quả này được khẳng định trong 5 năm theo dõi tiếp theo.
Các nghiên cứu CXL trên lâm sàng được báo cáo trên y văn thế giới có thể tóm tắt trong bảng 1. Các nghiên cứu trên cho thấy không có biến chứng trầm trọng nào trong việc ứng dụng công nghệ này. Phần lớn các biến chứng xảy ra sớm sau điều trị và được giải quyết nhanh chóng nhờ sử dụng kính áp tròng để làm lành biểu mô. Hiện nay CXL đang được nghiên cứu và áp dụng để ngăn chặn sự tiến triển của giác mạc hình chóp tại nhiều nơi trên thế giới.
Tác giả |
Loại nghiên cứu |
Số lượng |
Thời gian theo dõi |
Kết quả |
Biến chứng |
Caporrosi et al 14 |
Tiến cứu, không ngẫu nhiên |
10 mắt /10 bệnh nhân |
6 tháng |
Khúc xạ giác mạc giảm 2.1±0.13 D |
Không báo cáo |
Wittig-Silva et al 15 |
Tiến cứu, ngẫu nhiên |
66 mắt/ 49 bệnh nhân |
12 tháng( 9 bệnh nhân ) |
Khúc xạ giác mạc giảm 1.45 D |
Không có biến chứng nghiêm trọng |
Hoyer et al 16 |
Hồi cứu |
153 mắt/ 111 bệnh nhân |
12 tháng (minimum) |
Khúc xạ giác mạc giảm sau 2 năm 4.34 D |
1 trường hợp biến chứng viêm giác mạc được điều trị khỏi |
Raiskup-Wolf et al 17 |
Hồi cứu |
480 eyes of 272 patients |
6 months (tối thiểu) |
Khúc xạ giác mạc giảm 4.84 D sau năm thứ 3 |
Không có |
Jankov et al 18 |
Tiến cứu, không ngẫu nhiên |
25 mắt/ 20 bệnh nhân |
4–7 tháng |
Khúc xạ giác mạc giảm 2 D |
Không có |
Vinciguerra et al 19 |
Tiến cứu, không ngẫu nhiên |
28 mắt/ 28 bệnh nhân |
12 tháng |
Khúc xạ giác mạc giảm 6.07 D |
Không báo cáo |
Grewal et al 20 |
Tiến cứu, không ngẫu nhiên |
102 bệnh nhân |
12 tháng |
Không thay đổi nhiều về thị lực và khúc xạ giác mạc |
Không báo cáo |
Agrawal21 |
Hồi cứu |
37 mắt/ 25 bệnh nhân |
12 tháng (minimum) |
Khúc xạ giảm trung bình 2.47 D trên 54% số mắt |
Không báo cáo |
Thứ bảy, 28 Tháng 7 2012 12:15
Thứ tư, 25 Tháng 7 2012 08:59
Thứ sáu, 20 Tháng 7 2012 16:02
Thứ tư, 18 Tháng 7 2012 15:02
Thứ ba, 17 Tháng 7 2012 14:52
Thứ ba, 17 Tháng 7 2012 12:29
Thứ tư, 30 Tháng 11 2011 06:41
Thứ tư, 18 Tháng 7 2012 15:02
Thứ tư, 30 Tháng 11 2011 03:57
Thứ ba, 17 Tháng 7 2012 12:29
Thứ tư, 25 Tháng 7 2012 08:59
Chủ nhật, 04 Tháng 12 2011 13:13
Bình luận
Danh sách bình luận dưới dạng RSS